Nhắc đến đồng
bằng sông Cửu Long mà không nói đến văn minh miệt vườn đó là một thiếu sót đáng
trách .Đồng bằng sông Cửu Long là quê
hương của “văn minh sông rạch”, “văn minh miệt vườn” khá độc đáo. Bờ sông không
đắp đê, lại bị cắt từng chặng ở ngã ba, ngã tư, muốn qua rạch nhỏ thì sẵn kiểu
“cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi”. “Cầu ván đóng đinh” xuất hiện rất trễ khi
thực dân Pháp đến. Trong công cuộc khai phá và xây dựng miền đất
mới của cư dân người Việt ở Nam bộ, dưới tác động của thiên nhiên, con người
càng có ý thức cải tạo thiên nhiên. Lập vườn là công việc lao động đầy sáng tạo
của những người mở đất. Khác với vườn ở đồng bằng sông Hồng, vườn ở đồng bằng Cửu
Long rộng lớn, ở từng nơi vườn thường tập trung lại với nhau thành những không
gian vườn tược rộng lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao. “Huê lợi vườn nhiều gấp
50 lần huê lợi ruộng” và riêng tỉnh Bến Tre thì “trong tổng số diện tích
154.606 mẫu tây, có 16.500 mẫu vườn tược”. Sự ra đời của miệt vườn không chỉ có
ý nghĩa vật chất mà còn có ý nghĩa văn hóa, thể hiện khả năng ứng xử phù hợp của
con người đối với thiên nhiên. Số đông các nhà nghiên cứu khi viết về văn hóa Nam bộ có một
cách hiểu chung miệt vườn là “những vùng, những tỉnh xưa được lưu dân Việt vào
khai phá sớm hơn cả”. Đó là những dãy đất “giồng” cao ráo mà những người đi mở
đất đã chọn “làm đất đứng chân” vì những nơi này “thỏa mãn những yêu cầu ban đầu
cho người dân đi khai phá có nước ngọt, cao ráo, tránh được muỗi mòng, rắn rết,
trồng được 13
nhịp dài 150 m, nhịp giữa dài 350 m. Độ cao
thông thuyền là 37,5 m. Mặt cầu rộng 23,6 m chia thành 4 làn xe cơ giới ở giữa
và hai làn cho người đi bộ và xe thô sơ hai bên.Cầu Mỹ Thuận là công trình hợp
tác giữa các chuyên gia, kỹ sư và công nhân của hai nước Australia và Việt Nam,
một công trình giao thông có kiểu dáng kiến trúc duyên dáng trên quốc lộ 1A,
thu hút khách du lịch mọi miền.
Đến Châu Đốc,không
thể nào không thăm quan cụm di tích núi Sam.
Miếu Bà Chúa Xứ tọa lạc ở khu danh thắng núi Sam,tại chân núi Sam
thuộc xã Vĩnh Tế,thị xã Châu Đốc.Miếu được lập vào đầu thế kỷ 14 (khoảng
1820-1825),khi ấy còn làm bằng tre lá đơn sơ.Qua nhiều lần sửa sang đến năm
1972 miếu được xây dựng lại quy mô và tráng lệ theo kiểu hình khối tháp,có 4 tầng
mái cong lợp ngói ống,tráng men xanh.Nghệ thuật chạm trổ rất tinh xảo .Toàn khu
Miếu Bà là một công trình nghệ thuật tiêu biểu cho sự hài hoà của nền kiến trúc
truyền thống,dân tộc và hiện đại.Vì vậy,miếu đã được Bộ Văn Hóa công nhận và xếp
hạng di tích lịch sử văn hóa 1989.Sau tết Nguyên Đán,du khách từ khắp nơi trong
cả nước về đây trẩy hội rất đông .Có thể nói nơi đây là 1 lễ hội dân gian lớn
nhất ở ĐBSCL.Những năm gần đây,chùa Bà đã thu hút hàng triệu lượt du khách đến
chiêm bái và tham quan khu danh thắng.Các hoạt động văn nghệ,vui chơi,giải trí
văn hóa nghệ thuật dân gian,thể thao,các dịch vụ cũng diễn ra sôi nổi, hào hứng
đó là hình thức hội hè đã thu hút hấp dẫn mọi người cùng tham gia và đáo lệ hằng
năm.Chính vì vậy mà năm 2001,bộ văn hóa thông tin và tổng cục du lịch đã chính
thức công nhận lễ hội vía bà chúa sứ núi sam là lễ hội cấp quốc gia,trở thành 1
trong 15 lễ hội tiêu biểu nhất cả nước.
Nằm trong cụm
di tích của núi sam,nhưng lăng thoại ngọc hầu lại là 1 công trình kiến trúc đẹp
cổ kính.Toàn khu sơn lăng là một kiến trúc hài hòa,duyên dáng.khu chính giữa là
lăng mộ và đền thờ,2 bên là 2 dãy mộ vô danh nằm dưới những cây rừng chen vài
cây phượng vĩ trỗ đầy hoa đỏ những khi vào hàng.Ông thoại ngọc hầu là 1 công thần
nhà nguyễn,Ông tên thật là nguyễn văn thoại được tước phong ngọc hầu,ông là một
danh nhân có công khai khẩn đất hoang lập làng,mở mang giao thông.bảo vệ biên
cương tổ quốc nói chung và vùng đất An Giang nói riêng.Lăng thoại ngọc hầu là 1
di tích có nhiều ý nghĩa lịch sử và kiến trúc nghệ thuật,tiêu biểu của An Giang
dưới thời phong kiến còn lưu lại,được nhà nước công nhận.Nhân dân và chính quyền
An Giang đã và đang trùng tu tôn tạo bảo quản để phát huy tốt trong công tác
giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Điểm thứ ba đó là Chùa Tây An thuộc xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Ðốc. Từ thị
xã Châu Ðốc nhìn về hướng tây thấy một ngọn núi cao khoảng 284 m, gọi là núi
Sam (cách thị xã 5 km). Ðến chân núi Sam, nhìn lên hướng núi là thấy một ngôi
chùa mang dáng dấp của những ngôi chùa ấn Ðộ có kiến trúc hài hoà với cảnh trí
thiên nhiên, tạo một vẻ đẹp lộng lẫy đó là chùa Tây An.Chùa Tây An cổ tự do một vị quan triều Nguyễn đời Minh Mạng (1820)
là Tổng đốc Nguyễn Nhật An xây dựng theo lời nguyện của ông khi được triều đình
phái đi Cao Miên. Theo lời nguyện này, nếu ông đi thành công, khi về sẽ dựng một
ngôi chùa thờ Phật tại chân núi Sam. Cất chùa xong bằng tre, ông thỉnh vị Hoà
thượng đầu tiên là Nguyễn Văn Giác, pháp hiệu là Hải Tịnh đến trụ trì. Năm Thiệu
Trị thứ 7 (1847), chùa lại thỉnh thêm một vị Hoà thượng nữa tên là Ðoàn Minh
Huyền, pháp hiệu là Pháp Tang đến trụ trì. Vị Hoà thượng sau này ngoài việc tu
hành còn có tài làm thuốc trị bệnh cho nhân dân rất hiệu quả nên sau khi ông mất,
đồng bào suy tôn hoà thượng với danh hiệu là Phật thầy Tây An và danh hiệu này
vẫn được nhân dân gọi đến ngày nay.Chùa được sửa chữa nhiều lần theo thời gian
trụ trì của các vị hoà thượng. Chùa kiến trúc theo kiểu ấn Ðộ với các vật liệu
bền chắc như gạch ngói, xi măng. Chính diện là ngôi chùa chính giữa cao 18 m,
thờ tượng phật Thích ca, còn hai bên là lầu chiêng và lầu trống. Trước chùa có
3 vọng cửa: cửa giữa tam quan thờ tượng Phật Quan Âm, 2 cửa hai bên có hai bảng
đề "Tây An cổ tự", bên trong cửa tam quan là sân chùa có một cột phướn
cao 16 m. Dưới bậc thang chùa có đúc bạch tượng và hắc tượng, vai có đắp nổi
hai vị thần tiên ngồi bên trên mặt trăng lưỡi liềm, 2 bên là hai hành lang,
phân biệt cho tín đồ nam nữ. Chùa theo phái Ðại thừa, có tới 11.270 tượng lớn
nhỏ bằng gỗ. Ngày rằm tháng riêng, rằm tháng 7 và tháng 10 âm lịch là ngày nhân
dân đến cúng lễ đông nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét